Điều trị i 131 là gì? Các công bố khoa học về Điều trị i 131

I-131 là một chất phóng xạ gốc iodine-131, được sử dụng trong điều trị của một số bệnh lý liên quan đến tuyến giáp, nhất là u xơ nang tuyến giáp và ung thư tuyế...

I-131 là một chất phóng xạ gốc iodine-131, được sử dụng trong điều trị của một số bệnh lý liên quan đến tuyến giáp, nhất là u xơ nang tuyến giáp và ung thư tuyến giáp. I-131 là một chất phóng xạ đặc biệt mạnh, nó phát ra photon gamma và hạt beta, nhằm tiêu diệt các tế bào tuyến giáp hoặc mô u trong cơ thể. Quá trình điều trị bằng I-131 thường kéo dài trong một thời gian ngắn, sau đó cần theo dõi sự phục hồi của tuyến giáp và tầm ảnh hưởng của thuốc lên các hệ thống khác trong cơ thể.
I-131 là pho tuyến giáp nhân tạo có phóng xạ ít, được sử dụng trong điều trị nhiễm độc tuyến giáp, u (ung thư) tuyến giáp và u xơ nang tuyến giáp.

Trong điều trị nhiễm độc tuyến giáp, điều trị với I-131 đã được chứng minh là hiệu quả và an toàn. Khi được dùng bằng đường miệng, I-131 được hấp thụ nhanh chóng bởi tuyến giáp, nơi nó phát ra phóng xạ để phá hủy tế bào tuyến giáp quá hoạt động. Quá trình này giúp giảm sản xuất và thải hoạt động của hormon tuyến giáp, từ đó làm giảm những triệu chứng nhiễm độc tuyến giáp như co cứng cơ, nhịp tim nhanh và mệt mỏi.

Trong trường hợp ung thư tuyến giáp, I-131 được sử dụng sau khi tuyến giáp đã được loại bỏ hoặc đã bị tổn thương từ phẫu thuật hoặc điều trị bằng I-131. I-131 phát xạ để tiêu diệt các tế bào ung thư tuyến giáp còn sót lại sau phẫu thuật hoặc điều trị khác.

Trong điều trị u xơ nang tuyến giáp, I-131 giúp làm giảm kích thước của các u xơ nang tuyến giáp bằng cách tấn công và phá hủy các mô ung thư trong u.

Quá trình điều trị bằng I-131 có thể kéo dài từ vài ngày đến vài tuần, tùy thuộc vào loại bệnh lý và mức độ nghiêm trọng của bệnh. Sau quá trình điều trị, bệnh nhân có thể cần theo dõi định kỳ để đánh giá sự phục hồi của tuyến giáp và tầm ảnh hưởng của liệu pháp lên các hệ thống khác trong cơ thể.
Trong điều trị nhiễm độc tuyến giáp, I-131 có khả năng phá hủy các tế bào tuyến giáp dư thừa hoặc độc hại. Khi được uống, I-131 được hấp thụ bởi tuyến giáp và phát ra photon gamma và hạt beta. Các photon gamma huỷ hoại tế bào tuyến giáp bằng cách tác động lên DNA, gây chết tế bào và giảm chức năng của tuyến giáp. Hạt beta có thể đâm xuyên sâu vào các mô ung thư và gây hủy hoại cả tế bào ung thư.

Trước quá trình điều trị bằng I-131, bệnh nhân thường phải nằm nghỉ và kiểm tra chức năng tuyến giáp, bao gồm xét nghiệm máu và siêu âm tuyến giáp. Sau đó, bệnh nhân sẽ được uống một liều I-131, thường là dạng dung dịch hoặc viên nang. Dựa trên trạng thái bệnh lý và mức độ nghiêm trọng, liều lượng và thời gian điều trị sẽ được điều chỉnh.

Sau khi uống, I-131 được hấp thụ bởi tuyến giáp trong vòng vài giờ. Trong thời gian điều trị, bệnh nhân cần tuân thủ các biện pháp phòng ngừa phóng xạ. Điều này bao gồm hạn chế tiếp xúc với người khác, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ có thai, và tuân thủ các nguyên tắc vệ sinh cá nhân. Các vật dụng cá nhân cần được vệ sinh đặc biệt trước và sau sử dụng để ngăn chặn lây nhiễm chất phóng xạ.

Sau quá trình điều trị, bệnh nhân cần tiếp tục theo dõi và kiểm tra chức năng tuyến giáp. Khi tuyến giáp bắt đầu phục hồi, bác sĩ sẽ kiểm tra mức độ chức năng và thiết lập liều dự phòng hoặc điều chỉnh liều điều trị nếu cần thiết.

Tuy I-131 có tác dụng mạnh và hiệu quả trong điều trị nhiễm độc tuyến giáp, ung thư tuyến giáp và u xơ nang tuyến giáp, nhưng nó cũng có thể gây ra những tác dụng phụ. Một số tác dụng phụ thường gặp bao gồm buồn nôn, mệt mỏi, làm thay đổi chức năng tuyến giáp, tăng nguy cơ gây ung thư khác và tác dụng phụ đối với các cơ quan khác.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "điều trị i 131":

Các mục tiêu di truyền biểu sinh của các thành phần dinh dưỡng sinh học trong phòng ngừa và điều trị ung thư Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 1 Số 3-4 - Trang 101-116 - 2010
Tóm tắt

Sự quan tâm ngày càng tăng về di truyền biểu sinh trong ung thư xuất phát từ việc các biến đổi biểu sinh có liên quan đến hầu hết mọi bước trong quá trình hình thành khối u. Thú vị hơn, các thay đổi biểu sinh là những thay đổi di truyền có thể đảo ngược, không do sự thay đổi trongchuỗi DNA mà có khả năng làm thay đổi biểu hiện gen. Các tác nhân từ chế độ ăn uống gồm nhiều thành phần sinh học có hoạt tính thường xuyên điều chỉnh các mục tiêu phân tử khác nhau liên quan đến hình thành khối u. Chúng tôi trình bày những bằng chứng cho thấy nhiều thành phần dinh dưỡng sinh học có thể can thiệp vào các mục tiêu biểu sinh khác nhau trong việc phòng ngừa và điều trị ung thư. Các tác nhân này bao gồm curcumin (nghệ), genistein (đậu nành), polyphenol trà (trà xanh), resveratrol (nho) và sulforaphane (rau cải). Những thành phần sinh học này làm thay đổi quá trình methyl hóa DNA và các biến đổi histone cần thiết cho việc kích hoạt hoặc tắt gen trong phòng ngừa và điều trị ung thư. Các thành phần sinh học điều hòa các biến đổi biểu sinh liên quan đến sự kích thích các gen ức chế khối u như p21 WAF1/CIP1 và ức chế các gen khuyến khích khối u như enzym nhân bản telomerase ở người trong quá trình hình thành khối u. Tại đây, chúng tôi trình bày những bằng chứng đáng kể cho thấy các thành phần sinh học và các mục tiêu biểu sinh của chúng có liên quan đến phòng ngừa và điều trị ung thư, điều này có thể tạo điều kiện cho việc khám phá và phát triển thuốc mới. Ngoài ra, những tiến bộ đáng kể trong việc hiểu biết về các cơ chế biểu sinh cơ bản cũng như sự phát triển nhanh chóng trong việc phát triển các công nghệ mới mạnh mẽ, chẳng hạn như các công nghệ phát hiện nhạy bén và định lượng các thay đổi biểu sinh và biểu genome trong sinh học ung thư, hứa hẹn những phương pháp biểu sinh mới trong việc phòng ngừa và điều trị ung thư.

Suy thận cấp thứ phát do điều trị Imatinib Mesylate ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt Dịch bởi AI
Annals of Pharmacotherapy - Tập 39 Số 12 - Trang 2136-2138 - 2005
MỤC TIÊU

Báo cáo một trường hợp suy thận cấp kết hợp với việc sử dụng imatinib mesylate.

TÓM TẮT TRƯỜNG HỢP

Một bệnh nhân nam 64 tuổi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt đã tham gia vào một thử nghiệm giai đoạn I với imatinib mesylate kết hợp với taxotere theo một quy trình yêu cầu thời gian dùng thử imatinib mesylate đơn độc. Trong quá trình điều trị bằng imatinib mesylate, bệnh nhân đã phát triển suy thận cấp, cần phải chạy thận nhân tạo. Một cuộc sinh thiết thận đã chỉ ra sự vacuol hóa ống thận. Tình trạng suy thận đã được cải thiện khi ngừng imatinib mesylate.

THẢO LUẬN

Imatinib mesylate là một chất ức chế protein tyrosine kinase, có khả năng ức chế tyrosine kinase BCR-ABL, các tyrosine kinase thụ thể cho yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc tiểu cầu và yếu tố tế bào gốc c-kit. Ung thư tuyến tiền liệt đã được xác định là một mục tiêu cho liệu pháp với imatinib mesylate. Bệnh nhân này không có các yếu tố gây nhiễu khác dẫn đến suy thận. Một đánh giá khách quan về nguyên nhân đã xác định rằng imatinib mesylate là nguyên nhân có khả năng gây ra suy thận cấp. Sự hiện diện của một bệnh lý cầu thận chính đã được loại trừ bằng sinh thiết.

KẾT LUẬN

Suy thận cấp do imatinib mesylate đã được ghi nhận là có liên quan đến tác động độc hại lên tế bào ống thận trong 3 trường hợp. Chức năng thận nên được theo dõi chặt chẽ trong quá trình điều trị bằng imatinib mesylate.

Nghiên cứu lâm sàng điều trị 24 tuần nhờ sử dụng p38 alpha kinase inhibitor neflamapimod trong bệnh Alzheimer nhẹ: một nghiên cứu mù đôi đối chứng bằng placebo giai đoạn 2 Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2021
Tóm tắt Đặt vấn đề

Trong các nghiên cứu trước lâm sàng, kinase p38⍺ có liên quan đến cơ chế bệnh Alzheimer (AD). Trong các mô hình động vật, nó góp phần vào sự rối loạn chức năng synap không đầy đủ ở hồi hải mã, dẫn đến thiếu hụt trí nhớ, và tham gia vào quá trình sản xuất amyloid-beta (Aβ) và bệnh lý tau.

Phương pháp

Nghiên cứu REVERSE-SD (rối loạn chức năng synap) là một thử nghiệm đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng bằng placebo giai đoạn 2 về thuốc ức chế kinase p38⍺ neflamapimod; được thực hiện từ ngày 29 tháng 12 năm 2017 đến ngày 17 tháng 6 năm 2019; đã có 464 người tham gia được sàng lọc, trong đó 161 người được ngẫu nhiên phân bổ vào hai nhóm: 40 mg neflamapimod (78 người tham gia nghiên cứu) hoặc placebo tương ứng (83 người tham gia nghiên cứu), dùng đường uống hai lần một ngày trong 24 tuần. Các tiêu chí tham gia nghiên cứu bao gồm: biomarker AD được xác nhận trong dịch não tủy, Điểm Đánh giá Sa sút trí tuệ lâm sàng toàn cục (CDR)-điểm số 0.5 hoặc 1.0, điểm số trí nhớ CDR 0.5, và Điểm Trạng thái Tinh thần Mini (MMSE) từ 20–28. Kết quả chính là sự cải thiện trong trí nhớ tạm thời, được đánh giá qua sự thay đổi kết hợp trong các giá trị Z của Bài kiểm tra Học tập Verbal Hopkins Cải tiến (HVLT-R) Tổng hợp và Nhớ lại Muộn. Các kết quả thứ cấp bao gồm sự thay đổi trong Bảng điểm Trí nhớ Wechsler-IV (WMS) Nhớ lại Ngay và Nhớ lại Muộn, CDR-SB, MMSE, và các biomarker trong dịch não tủy [tau tổng và phosphorylated (T-tau và p-tau181), Aβ1-40, Aβ1-42, neurogranin, và chuỗi nhẹ neurofilament].

Kết quả

Tại thời điểm ngẫu nhiên, tuổi trung bình là 72, 50% là nữ, 77% có điểm số CDR-toàn cục 0.5, và điểm số MMSE trung bình là 23.8. Tỷ lệ ngừng tham gia vì các sự kiện bất lợi và sự kiện bất lợi nghiêm trọng (tất cả đều được xem là không liên quan) là 3% mỗi loại. Không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm điều trị trong kết quả chính hoặc thứ cấp. Mức độ T-tau trong dịch não tủy giảm đáng kể với điều trị bằng neflamapimod, so với placebo, với [sự khác biệt (95% CI): −18.8 (−35.8, −1.8); P=0.031] và p-tau181 [−2.0 (−3.6, −0.5); P=0.012], với một xu hướng cho neurogranin [−21.0 (−43.6, 1.6); P=0.068]. Trong các phân tích dược động học-khả năng dược lý (PK-PD) đã được chỉ định trước đó, các đối tượng trong tứ phân vị cao nhất về mức độ neflamapimod trong huyết tương cho thấy xu hướng tích cực, so với placebo, trong HLVT-R và WMS.

Kết luận và tính liên quan

Điều trị 24 tuần với 40 mg neflamapimod hai lần mỗi ngày không cải thiện trí nhớ tạm thời ở bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer nhẹ. Tuy nhiên, điều trị bằng neflamapimod đã làm giảm các biomarker trong dịch não tủy của sự rối loạn chức năng synap. Kết hợp với các phát hiện PK–PD, các kết quả chỉ ra rằng một nghiên cứu kéo dài hơn với liều cao hơn của neflamapimod để đánh giá tác động lên sự tiến triển của AD là cần thiết.

Đăng ký thử nghiệm

ClinicalTrials.gov mã số: NCT03402659. Đã đăng ký vào ngày 18 tháng 1 năm 2018

Đánh giá băng tulle thấm mật ong trong chăm sóc sức khỏe ban đầu Dịch bởi AI
British Journal of Community Nursing - Tập 9 Số Sup2 - Trang S21-S27 - 2004

Mật ong đã được sử dụng vì các đặc tính chữa bệnh của nó trong nhiều thế kỷ và đã được dùng để băng vết thương với kết quả thuận lợi. Sự xuất hiện của kháng thuốc kháng sinh và sự quan tâm ngày càng tăng đối với các liệu pháp ‘tự nhiên’ hoặc ‘hỗ trợ’ đã dẫn đến sự quan tâm đến các băng vết thương từ mật ong. Cho đến nay, phần lớn nghiên cứu liên quan đến các đặc tính kháng khuẩn của mật ong. Tuy nhiên, các đặc tính chữa lành được tuyên bố cho mật ong cũng bao gồm việc kích thích sự phát triển mô mới, chữa lành vết thương ẩm, xử lý dịch và thúc đẩy quá trình biểu mô hóa. Cho đến gần đây, mật ong chưa được phát triển như một sản phẩm quản lý vết thương và chưa được chứng nhận là thiết bị dược phẩm. Activon Tulle là một băng vô trùng, không dính, thấm mật ong từ Leptospermum scoparium. Các đặc tính của băng vết thương mật ong được tuyên bố sẽ khiến sản phẩm này trở thành một bổ sung quý giá cho các loại băng hiện có trong môi trường chăm sóc sức khỏe ban đầu. Một đánh giá đã được tiến hành với 20 bệnh nhân có nhiều loại vết thương khác nhau. Kết luận được rút ra rằng mặc dù cần có thêm nghiên cứu, nhưng mật ong y tế dường như là một bổ sung quý giá cho danh mục thuốc quản lý vết thương.

#mật ong #băng vết thương #kháng khuẩn #điều trị vết thương #chăm sóc sức khỏe ban đầu
Bị Kẹp Gân Chày Trước Sau Khi Đặt Dây Chằng Chéo Để Điều Trị Chấn Thương Hội Chứng Synudis Cấp Tính Dịch bởi AI
Foot and Ankle Specialist - Tập 6 Số 3 - Trang 242-246 - 2013

Các chấn thương hội chứng bắp chân thường yêu cầu phải nắn chỉnh giải phẫu và cố định. Việc cố định bằng vít ligament thường được sử dụng; tuy nhiên, nó ngăn cản chuyển động sinh lý tại khớp, thường yêu cầu một cuộc phẫu thuật thứ hai để gỡ bỏ vít, và có thể hạn chế khả năng chịu trọng lượng sau phẫu thuật. Dây Chằng Chéo (Ankle Tightrope) (Arthrex, Naples, FL) được giới thiệu để cho phép micromotion sinh lý giữa xương chày và xương mác, giúp cử động khớp mắt cá chân sớm và khả năng chịu trọng lượng mà không cần một cuộc phẫu thuật thứ hai để gỡ bỏ. Đối với các chấn thương Maisonneuve, hoặc bất ổn hội chứng nghiêm trọng hơn, cần một dây chằng chéo thứ hai. Điều này được khuyến nghị đặt cách dây đầu tiên 1 cm và có sự phân kỳ trục trong mặt phẳng ngang để tăng cường sự ổn định xoay. Các loạt nghiên cứu ban đầu đã chỉ ra rằng các biến chứng chính của việc cố định bằng dây chằng chéo là sự lồi của nút thắt hoặc các biến chứng vết thương. Các biến chứng khác đã được ghi nhận bao gồm sự ăn mòn của các nút vào xương, sự nối xương, và sự tách đôi. Đây là báo cáo đầu tiên về việc bị kẹp gân từ nút bên trong. Những lý do cho điều này được thảo luận cùng với những gợi ý cho kỹ thuật phẫu thuật.

Các mức độ bằng chứng: Điều trị, Mức độ IV

HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ MẤT NGỦ KHÔNG THỰC TỔN THỂ TÂM TỲ HƯ BẰNG PHƯƠNG PHÁP CẤY CHỈ KẾT HỢP TẬP DƯỠNG SINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị mất ngủ không thực tổn thể tâm tỳ hưbằng cấy chỉ kết hợp tập dưỡng sinh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, so sánh kết quả trước và sau điều trị có đối chứng.60 bệnh nhân tuổi trên 18 được chẩn đoán mất ngủ không thực tổn, phù hợp chứng thất miên thể tâm tỳ hư theo Y học cổ truyền, không phân biệt giới tính, nghề nghiệp, tình nguyện tham gia nghiên cứuđược phân thành hai nhóm, nhóm nghiên cứu điều trị bằng cấy chỉ kết hợp tập dưỡng sinh x 30 ngày, nhóm đối chứng điều trị bằng uống Rotundavới thời gian tương tự. Kết quả:Thời gian vào giấc ngủ, tần suất rối loạn giấc ngủ ở nhóm nghiên cứu cải thiện rõ rệt so với trước điều trị. Chất lượng giấc ngủ đánh giá ở mức tốt đạt 55,7%, thời lượng giấc ngủ trung bình trong đêmtăng từ 4,01±0,53 (giờ) trước điều trị lên 6,76±0,40 (giờ) sau điều trị. Điểm số các thành phần PSQI sau điều trị cải thiện có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị và tốt hơn nhóm đối chứng. Tổng điểm PSQI trung bình giảm từ 13,97±3,01 trước điều trị xuống còn 4,52±1,14 sau điều trị. Kết luận: Kết hợp giữa cấy chỉ và tập dưỡng sinh là phương pháp điều trị hiệu quả tình trạng mất ngủ không thực tổn.
#Mất ngủ #cấy chỉ #dưỡng sinh
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, TÝP HUMAN PAPILLOMA VIRUS VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH SÙI MÀO GÀ TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2020
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, xác định týp Human papilloma virus của bệnh nhân sùi mào gà tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Cần Thơ năm 2020 và đánh giá kết quả điều trị bệnh sùi mào gà tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Cần Thơ năm 2020. Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Kết quả: Nghiên cứu 85 bệnh nhân có dạng thương tổn sùi mào gà nhọn 89,4%, sùi mào gà sẩn 22,4%, sẩn sừng hóa 5,9% và sẩn dẹt 3,5%. HPV týp 6 và 11 chiếm tỷ lệ cao nhất, lần lượt là 45,9% và 54,1%. Týp HPV nguy cơ thấp chiếm 18,8%, nguy cơ cao chiếm 10,6% và nhiễm cả 2 nhóm týp chiếm 70,6%. Kết quả điều trị tốt 71,8%, tỷ lệ tái phát 15,3%, tỷ lệ tác dụng phụ 2,4%, tỷ lệ biến chứng chảy máu 1,2%,  đau 7,1%, phù nề 8,2% và nhiễm trùng là 3,5%. Kết luận: Sùi mào gà dạng nhọn là dạng thường gặp nhất chiếm 89,4%. HPV týp 11 là týp thường gặp nhất chiếm tỷ lệ 54,1%. Kết quả điều trị tốt chiếm tỷ lệ 71,8%.
#Sùi mào gà sinh dục #Human papilloma virus
Phương pháp điều trị thuyết phục cho LVH: những suy luận thẳng (và không thẳng) từ bằng chứng Dịch bởi AI
Clinical Hypertension - Tập 25 Số 1 - 2019
Tóm tắt

Chúng tôi đã đọc với sự quan tâm hướng dẫn của Hiệp hội Tăng huyết áp Hàn Quốc về việc quản lý bệnh tăng huyết áp và chúc mừng Hiệp hội về việc xem xét tài liệu một cách toàn diện trong quá trình soạn thảo hướng dẫn. Hướng dẫn chỉ ra rằng nên ưu tiên ACE-I và CCB hơn là thuốc lợi tiểu cho bệnh nhân bị phì đại thất trái. Tuy nhiên, trong các thử nghiệm so sánh trực tiếp quan trọng, thuốc lợi tiểu tương tự thiazide chlorthalidone đã được chứng minh là vượt trội hơn ACE-I và CCB trong việc giảm khối lượng thất trái và ngăn ngừa suy tim ở bệnh nhân tăng huyết áp. Hơn nữa, chúng tôi nêu ra phát hiện nghịch lý rằng việc đơn thuần giảm phì đại thất trái không phải lúc nào cũng dẫn đến việc giảm nguy cơ suy tim; và rằng các tác động đa diện của chlorthalidone có thể là lý do giải thích cho hoạt động có lợi của nó trong suy tim.

HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ ĐAU VÙNG CỔ GÁY DO THOÁI HÓA CỘT SỐNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP CẤY CHỈ KẾT HỢP CHIẾU ĐÈN TẦN PHỔ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị đau vùng cổ gáy do thoái hóa cột sống bằng cấy chỉ kết hợp chiếu đèn tần phổ. Đối tượng và phương pháp: 60 bệnh nhân tuổi trên 30 được chẩn đoán đau vùng cổ gáy do thoái hóa cột sống, không phân biệt giới tính, nghề nghiệp, tình nguyện tham gia nghiên cứu.Nhóm đối chứngđiều trị bằng xoa bóp bấm huyệt kết hợpchiếu đèn tần phổ, nhóm nghiên cứu điều trị như nhóm đối chứng kết hợp cấy chỉ. So sánh kết quả sau 20 ngày điều trị. Kết quả: Cấy chỉ kết hợp chiếu đèn tần phổhiệu quả trong điều trị đau vùng cổ gáy do thoái hóa cột sống, 90% đạt hiệu quả tốt và khá. Biên độ hoạt động cột sống cổ, mức độ đau và mức độ hạn chế sinh hoạt hàng ngày NDI cải thiện tốt hơn có ý nghĩa so với trước điều trị và tốt hơn so với nhóm đối chứng. Kết luận: Cấy chỉ kết hợp chiếu đèn tần phổhiệu quả tốt trong điều trị đau vùng cổ gáy do thoái hóa cột sống.
#Đau vùng cổ gáy #cấy chỉ
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH TĂNG HUYẾT ÁP VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP Ở NGƯỜI TĂNG HUYẾT ÁP TỪ 25 TUỔI TRỞ LÊN TẠI HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU NĂM 2022-2023
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 65 - Trang 137-143 - 2023
Đặt vấn đề: Tăng huyết áp là bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tuy nhiên trên thực tế căn bệnh này vẫn chưa được quan tâm, kiểm soát và điều trị một cách đầy đủ. Mục tiêu nghiên cứu: (1) Xác định tỷ lệ và những yếu tố liên quan tăng huyết áp ở người từ 25 tuổi trở lên, (2) Đánh giá kết quả can thiệp điều trị và tuân thủ điều trị ở người bệnh tăng huyết áp tại huyện Thới Bình, Cà Mau. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 619 bệnh nhân tăng huyết áp từ 25 tuổi trở lên và nghiên cứu can thiệp không có nhóm chứng trên 229 bệnh nhân ở mỗi nhóm can thiệp và nhóm chứng.Phương pháp can thiệp truyền thông giáo dục sức khoẻ. Kết quả: Tỷ lệ tăng huyết áp là 37%. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy các yếu tố có liên quan đến tăng huyết áp như: tiền sử gia đình có mắc tăng huyết áp, nhóm tuổi, thói quen ăn mặn, thói quen tiêu thụ nhiều chất béo bảo hoà. Sau can thiệp, tỷ lệ kiểm soát được huyết áp tăng lên 77,7%. Tỷ lệ tuân thủ điều trị theo Morisky  tăng lên 73.4%.. Các yếu tố can thiệp không dùng thuốc có cải thiện như tăng vận động thể lực 44,5%, giảm được cân là 28,7%. Kết luận: Cần tăng cường các hình thức huy động sự tham gia của gia đình trong việc nhắc nhở, động viên và tạo môi trường thuận lợi để người bệnh thực hiện tốt việc tuân thủ điều trị.
#Tăng huyết áp #tuân thủ điều trị #can thiệp
Tổng số: 114   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10